Phân bố và môi trường sống Chi Nhĩ cán

Utricularia aurea mọc trên một ruộng lúa ở Thái Lan.

Utricularia có thể sinh sống ở hầu hết mọi nơi có nước ngọt trong ít nhất một phần của năm; chỉ có châu Nam Cực và một số đảo trên đại dương là không có loài bản địa. Sự đa dạng loài lớn nhất của chi này được thấy ở Nam Mỹ, với Australia đứng thứ hai.[1] Giống như hầu hết các loài cây ăn thịt, chúng phát triển trong đất ẩm nghèo khoáng chất hòa tan, nơi bản chất ăn thịt của chúng mang lại lợi thế cạnh tranh. Các loài trên cạn của Utricularia có thể thường xuyên được tìm thấy cùng với các đại diện của chi thực vật ăn thịt khác như Sarracenia, Drosera và những loài/chi khác ở những khu vực rất ẩm ướt, nơi nước chảy loại bỏ hầu hết các khoáng chất dễ hòa tan nhất từ đất.

Khoảng 80% các loài là sống trên cạn, và hầu hết sinh sống trong đất ngập nước hoặc ẩm ướt, nơi các bong bóng nhỏ của chúng có thể tiếp xúc vĩnh viễn với nước trong chất nền. Thường thì chúng sẽ được tìm thấy ở những vùng đầm lầy nơi mức nước ngầm rất gần bề mặt. Hầu hết các loài sống trên cạn là nhiệt đới, mặc dù chúng xuất hiện trên toàn thế giới.[2]

Khoảng 20% các loài là thủy sinh.[2] Hầu hết các loài này trôi nổi tự do trên mặt ao và các vùng nước tĩnh lặng nhiều bùn ở đáy khác và chỉ nhô lên trên mặt nước khi ra hoa, mặc dù một số loài là thực vật thạch sinh và thích nghi với các dòng suối chảy nhanh hoặc thậm chí các thác nước.[10] Các cây này thường được tìm thấy ở vùng nước chua, nhưng chúng hoàn toàn có khả năng phát triển ở vùng nước mặn và rất có thể sẽ là như vậy nếu không gặp phải mức độ cạnh tranh cao hơn từ các loài thực vật khác trong những khu vực như vậy.[10] U. vulgaris là một loài thủy sinh và phát triển thành các bè mảng phân nhánh với các thân bò lan riêng lẻ dài đến 1 m hoặc hơn trong ao và mương máng ở khắp đại lục Á Âu.[2]

Một số loài nhiệt đới Nam Mỹ là thực vật biểu sinh, và có thể được tìm thấy mọc trong rêu ướt và vỏ cây xốp trên cây trong các rừng mưa nhiệt đới, hoặc thậm chí trong các nơ lá đầy nước của các thực vật biểu sinh khác, chẳng hạn như các loài Tillandsia (một loại dứa râu).[3] Các thực vật biểu sinh tạo thành nơ lá như U. nelumbifolia mọc ra các thân bò để tìm kiếm các loài dứa khác gần đó để xâm lấn.[4]

Các cây này có khả năng thích nghi cao trong các phương pháp sinh tồn trong điều kiện khắc nghiệt theo mùa do chúng phù hợp về cấu trúc và kiểu cách tìm kiếm thức ăn. Các cây lâu năm ôn đới có thể cần có một thời kỳ mùa đông để chúng tàn lụi đi hàng năm, và chúng sẽ bị yếu đi trong gieo trồng nếu không có được điều này. Ngược lại, các loài nhiệt đới và ôn đới ấm không cần ngủ đông. Các loài nhĩ cán sống trôi nổi ở các vùng ôn đới lạnh như Anh và Siberia có thể sinh ra các chồi mùa đông ở các đầu mút của thân cây dạng củ con: do ánh nắng mùa thu yếu dần và sự phát triển chậm lại, cây chính có thể bị thối rữa hoặc bị chết bởi điều kiện băng giá, nhưng các củ con sẽ tách ra và chìm xuống đáy ao để nghỉ ngơi dưới lớp băng đang tới cho đến mùa xuân, khi chúng sẽ trở lại bề mặt và tiếp tục phát triển. Nhiều loài ở Australia sẽ chỉ phát triển trong mùa mưa, tiêu giảm xuống thành các củ chỉ dài 10 mm khi mùa khô tới. Các loài khác là một năm, phát triển từ hạt hàng năm.[2]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Chi Nhĩ cán http://www.ville-ge.ch/musinfo/bd/cjb/africa/detai... http://www.islandnet.com/~tmalcolm/ http://data.canadensys.net/vascan/taxon/1803 http://www.nzor.org.nz/names/61f6d6bc-ac3b-4a4b-84... http://www.botany.org/Carnivorous_Plants/Utricular... http://www.carnivorousplants.org/ //dx.doi.org/10.1006%2Fanbo.2001.1498 //dx.doi.org/10.1055%2Fs-2006-924706 http://www.efloras.org/florataxon.aspx?flora_id=2&... http://fossilworks.org/bridge.pl?a=taxonInfo&taxon...